Bên ngoài Bắc Mỹ Vận_mệnh_hiển_nhiên

Khi Nội chiến Hoa Kỳ nhạt dần trong lịch sử, thuật ngữ Vận mệnh hiển nhiên trải qua một cuộc hồi sinh ngắn ngũi. Trong cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ năm 1892, liên danh của Đảng Cộng hoà tuyên bố: "Chúng tôi tái xác nhận ủng hộ Học thuyết Monroe và tin vào thành tựu vận mệnh hiển nhiên của nền cộng hòa theo ý nghĩa rộng của nó." Cái nghĩa được ám chỉ bằng thuật ngữ "vận mệnh hiển nhiên" trong văn mạch này thì không được định nghĩa rõ ràng, đặc biệt kể từ khi liên danh Đảng Cộng hòa bị thất cử. Tuy nhiên trong cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ năm 1896, liên danh Đảng Cộng hòa đã tái chiếm lại được Tòa Bạch Ốc và giữ vững nó trong 16 năm tiếp theo. Trong thời gian đó, Vận mệnh hiển nhiên được nói đến để hô hào việc mở rộng lãnh thổ hải ngoại. Không biết phiên bản Vận mệnh hiển nhiên trong giai đoạn này có hay không có điểm tương đồng với chủ nghĩa bành trướng lục địa của thập niên 1840. Việc này đã bị tranh cãi vào lúc đó và một khoảng thời gian dài về sau.[24]

Chẳng hạn, khi Tổng thống William McKinley hô hào sáp nhập Lãnh thổ Hawaii năm 1898, ông nói rằng "Chúng ta rất cần Hawaii và đây là một món bở hơn là chúng ta có được California. Đó là vận mệnh hiển nhiên". Mặc khác, cựu Tổng thống Grover Cleveland, một đảng viên Dân chủ từng ngăn cản việc sáp nhập Hawaii trong nhiệm kỳ tổng thống của mình, đã viết rằng việc sáp nhập lãnh thổ của McKinley là một "sự sai lầm về vận mệnh quốc gia của chúng ta". Các sử gia tiếp tục cuộc tranh luận này. Một số diễn giải việc bành trướng ở hải ngoại trong thập niên 1890 như là một sự mở rộng Vận mệnh hiển nhiên ngang qua Thái Bình Dương. Những sử gia khác thì nhận định nó như sự tương phản của Vận mệnh hiển nhiên.[25]

Chiến tranh Tây Ban Nha-Mỹ và Philippines

Năm 1898, sau sự kiện chiến hạm USS Maine chìm trong bến cảng tại La Habana của Cuba, Hoa Kỳ can thiệp bên cạnh quân nổi dậy người Cuba nổi lên chống Đế quốc Tây Ban Nha làm khởi sự Chiến tranh Tây Ban Nha-Mỹ. Mặc dù, những người cổ vũ Vận mệnh hiển nhiên trong thập niên 1840 đã kêu gọi sáp nhập Cuba nhưng Tu chính Teller, được Thượng viện Hoa Kỳ nhất trí thông qua trước chiến tranh, tuyên bố Cuba "độc lập và tự do" và từ chối bất cứ sự can thiệp nào của Hoa Kỳ nhằm sáp nhập Cuba. Sau chiến tranh, Tu chính Platt (1902) thành lập Cuba giống như một đất bảo hộ thực sự của Hoa Kỳ. Nếu Vận mệnh hiển nhiên đồng nghĩa với sự sáp nhập lãnh thổ triệt để thì nó không còn được áp dụng đối với Cuba vì Cuba chưa bao giờ bị sáp nhập.

Không như Cuba, Hoa Kỳ sáp nhập Guam, Puerto Rico, và Philippines sau chiến tranh với Tây Ban Nha. Sự thu phục các đảo này đánh dấu một chương mới trong lịch sử Hoa Kỳ. Theo truyền thống thì các lãnh thổ bị Hoa Kỳ thu phục nhằm mục đích trở thành các tiểu bang mới ngang hàng với các tiểu bang đã tồn tại. Tuy nhiên các đảo này được thu phục như là các thuộc địa hơn là các tiểu bang tương lai. Một quá trình được nghiên cứu trong nhiều vụ xem xét mà trong đó Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ đã phán quyết rằng quyền hiến pháp đầy đủ không tự động được áp dụng cho tất cả các vùng nằm dưới quyền kiểm soát của Hoa Kỳ. Theo ý nghĩa này thì việc sáp nhập là một sự làm trái ngược Vận mệnh hiển nhiên truyền thống. Theo Frederick Merk, "Vận mệnh hiển nhiên đã chứa đựng trong đó một nguyên tắc rất cơ bản đến nỗi mà một người theo chủ nghĩa Calhoun và một người theo chủ nghĩa O'Sullivan có thể đồng thuận với nhau. Điều đó có nghĩa là một dân tộc không có khả năng đứng dậy để trở thành một tiểu bang thì không nên bị sáp nhập vào Hoa Kỳ. Đó là nguyên tắc được chủ nghĩa đế quốc năm 1899 mang theo bên mình."[26] (Philippines sau đó được trao trả độc lập năm 1946; Guam và Puerto Rico được tư cách đặc biệt cho đến ngày hôm nay nhưng người dân của họ có quyền công dân Hoa Kỳ đầy đủ.)

Mặt khác, Vận mệnh hiển nhiên cũng có chứa đựng trong nó cái ý tưởng rằng các dân tộc "kém văn minh" có thể được biến cải qua sự tiếp xúc với các giá trị dân chủ và Cơ đốc giáo của Hoa Kỳ. Khi quyết định sáp nhập Philippines, Tổng thống McKinley có nhắc lại chủ tố này: "Không còn gì cho chúng ta làm ngoài việc bắt họ hết, và giáo dục người Philippines, nâng đỡ, văn minh hóa và cải đạo Cơ đốc cho họ...." Bài thơ của Rudyard Kipling "The White Man's Burden" trong đó có tiểu tựa đề "Hoa Kỳ và Quần đảo Philippine" là một lời diễn đạt nổi tiếng về những ẩn ý này, rất phổ biến vào thời đó. Tuy nhiên, nhiều người Philippines chống đối nỗ lực nhằm "nâng đỡ và văn minh hóa" họ khiến xảy ra cuộc Chiến tranh Phillipines-Mỹ năm 1899. Sau khi chiến tranh bùng nổ, William Jennings Bryan, một người phản đối sự bành trướng ở hải ngoại, viết rằng "Vận mệnh không phải hiển nhiên như một vài tuần trước đây."[27]

Sử dụng sau đó

Sau khi bước sang thế kỷ 20, thuật ngữ Vận mệnh hiển nhiên càng ít được dùng đến khi sự mở rộng lãnh thổ không còn được cổ vũ như là một phần "Vận mệnh" của Hoa Kỳ. Dưới thời Tổng thống Theodore Roosevelt, vai trò của Hoa Kỳ tại Tân Thế giới đã được định nghĩa trong Hệ luận Roosevelt 1904 dựa theo Học thuyết Monroe như là một "lực lượng cảnh sát quốc tế" nhằm bảo đảm quyền lợi của Hoa Kỳ tại Tây Bán cầu. Hệ luận Roosevelt chứa đựng một sự bác bỏ dứt khoát việc bành trướng lãnh thổ. Trong quá khứ, Vận mệnh hiển nhiên được xem là cần thiết để làm vững mạnh Học thuyết Monroe tại Tây Bán cầu nhưng hiện thời thì chủ nghĩa bành trướng đã được thay thế bởi chủ nghĩa can thiệp như là một phương tiện chống đỡ học thuyết.

Tổng thống Woodrow Wilson tiếp tục chính sách can thiệp tại châu Mỹ và tìm cách tái định nghĩa cả Vận mệnh hiển nhiên và "sứ mệnh" Mỹ trong một phạm vi toàn thế giới rộng lớn hơn. Wilson lãnh đạo Hoa Kỳ vào Chiến tranh thế giới thứ nhất với lý do rằng "Thế giới phải được biến đổi an toàn vì dân chủ". Trong thông điệp gởi đến Quốc hội năm 1920 sau chiến tranh, Wilson phát biểu:

...Tôi nghĩ tất cả chúng ta nhận thấy rằng ngày mà Dân chủ được đưa lên để thử nghiệm lần cuối cùng sẽ đến. Cựu Thế giới hiện thời đang bị thương tổn vì sự từ chối vô cớ cái nguyên tắc dân chủ và vì sự thay thế bằng nguyên tắc chuyên chính được gắn liền với cái tên nhưng không có sự ủy quyền và ủng hộ của số đông. Đây là thời gian cho tất cả các dân tộc khác khi Dân chủ chứng tỏ được cái trong sạch thuần khiết và sức mạnh tinh thần của nó để thắng thế. Chính vận mệnh hiển nhiên của Hoa Kỳ chắc chắn đi đầu trong nỗ lực biến tinh thần này thắng thế.

Đây là lần đầu tiên và duy nhất một vị tổng thống đã sử dụng thuật ngữ "Vận mệnh hiển nhiên" trong bài diễn văn hàng năm. Phiên bản Vận mệnh hiển nhiên của Wilson là một lời bác bỏ chủ nghĩa bành trướng và là một sự tán thành (theo nguyên tắc) quyền tự quyết mà nhấn mạnh rằng Hoa Kỳ có một sứ mệnh lãnh đạo thế giới vì chính nghĩa dân chủ. Viễn tưởng này của Hoa Kỳ với vai trò lãnh đạo "thế giới tự do" đã phát triển mạnh hơn trong thế kỷ 20 sau Chiến tranh thế giới thứ hai mặc dù nó ít khi được mô tả như "Vận mệnh hiển nhiên" như Wilson đã từng mô tả.[28]

Ngày nay, theo cách sử dụng chuẩn của các học giả, Vận mệnh hiển nhiên mô tả một thời đại quá khứ trong lịch sử Mỹ, đặc biệt là trong thập niên 1840. Tuy nhiên, thuật ngữ này đôi khi được phe tả khuynh chính trị và những người chỉ trích chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ sử dụng để mô tả đặc điểm các cuộc can thiệp tại Trung Đông và các nơi khác. Trong cách sử dụng này, Vận mệnh hiển nhiên được diễn giải như căn nguyên cơ bản (hoặc sự mở đầu) của cái được xem là "Chủ nghĩa đế quốc Mỹ".

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Vận_mệnh_hiển_nhiên http://web.grinnell.edu/courses/HIS/f01/HIS202-01/... http://americanart.si.edu/t2go/1lw/1931.6.1.html http://www.presidency.ucsb.edu/showplatforms.php?p... http://www.presidency.ucsb.edu/ws/index.php?pid=29... http://www.yale.edu/lawweb/avalon/presiden/inaug/p... http://www.h-net.org/reviews/showrev.cgi?path=1389... http://www.pbs.org/kera/usmexicanwar/educators/md3... http://teachingamericanhistory.org/library/index.a... http://en.wikisource.org/wiki/President_Wilson's_W...